• Danh sách chương
  • Cài đặt
    Màu nền
    Font chữ
    Cỡ chữ
    {{settingThemes.fontSize}}px
    Chiều rộng khung
    {{settingThemes.lineWidth}}px
    Giãn dòng
    {{settingThemes.lineHeight}}%
Chương 1: Một chút khái quát
Quyển I: Nó là Hoàng Anh Kiệt

C1: Một chút khái quát

Nam Giao Đô Ty là một trong những khu vực hành chính vừa lập ra sau khi Đại Hoa chinh phục được nước Bách Việt. Có thể tóm tắt về lịch sử của cuộc sáp nhập này như sau:

Đời vua họ Triệu thứ 10, vua Triệu Thành Tông, húy Quốc Cường, là một vị vua ăn chơi dâm dật, bắt dân chúng phục dịch việc thổ mộc, ép thuế má nặng nề, làm trăm họ lầm than. Các quan lại từ trung ương tới địa phương cùng với hoàng thân quốc thích thì thoải mái chèn ép người dân, khiến dân chúng bần cùng, hoặc phải bán vợ đợ con, tha phương cầu thực, hoặc bán mình làm nô tỳ và tá điền,…Tình hình nguy ngập khắp nơi khiến nguy cơ những cuộc khởi nghĩa nổ ra, đồng thời từ khắp các biên cương, quân ngoại quốc lăm le bờ cõi.

Năm Vạn Phúc Thứ Mười Hai ( một niên hiệu của Triệu Thành Tông), Dương Kính Nghiệp, một võ quan tài giỏi, được sự ủng hộ từ những quan lại có tâm với nước, đã lật đổ Triệu Thành Tông, lập nên triều đại của họ Dương, đồng thời mau chóng tiến hành những cải cách quan trọng để củng cố lại Bách Việt, tránh họa ngoại xâm đang cận kề. Dương Kính Nghiệp lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Vũ An.

Năm Vũ An Thứ Bảy, một tông thất họ Triệu là Triệu Văn Nghị trốn qua Ai Lao, rồi đi lên phương bắc xin viện trợ của Đại Hoa để về giành lại giang sơn. Hoàng Đế Đại Hoa lúc đó là Đại Hoa Thành Tổ, húy là Chu Hữu, liền lệnh cho em trai là Xương Thành Vương Chu Định mang10 vạn tinh binh và 30 vạn dân phu tiến đánh Bách Việt:
- 10 vạn tinh binh lấy từ:
3 vạn lính từ Vân Nam do Vân Nam Tổng Binh- Chu Đường chỉ huy
5 vạn lính từ Quý Châu do Quý Châu Tổng Đốc- Hoằng Thiên Hóa chỉ huy
1 vạn lính thủy từ Lưỡng Quảng do Đề Đốc Lưỡng Quảng- Vương Vạn Tường chỉ huy
1 vạn lính thủy từ Quỳnh Châu do Đề Đốc Quỳnh Châu- Trương Kinh chỉ huy
- 30 vạn dân phu lấy từ:
5 vạn dân dị tộc của Vân Nam ( dân Bạch, dân Thái, dân Miêu, dân Hồi Hột,…)
5 vạn dân dị tộc của Quý Châu ( dân Bố Y, dân Thổ Gia, dân di,….)
5 vạn dân dị tộc Lưỡng Quảng ( dân Tráng, dân Dao, dân Miêu, dân Động,…)
15 vạn tù tội của những nơi đã chống lại Đại Hoa trong những cuộc trinh phạt phía trước: Khương từ Đảng Hạng, Chuẩn Cát Nhĩ, Tích Bá, Kazah từ Tây Vực, Tarta, Nãi Man, Tạng từ Thổ Phồn,….

Năm Vũ An Thứ Tám, quân Đại Hoa tiến vào Bách Việt với sự chỉ điểm của tông thất họ Triệu, đã nhanh chóng đánh cho quân Bách Việt nhiều trận thua đau. Nhưng quân và dân Bách Việt thề sống chết giữ nước, thành ra đà tiến công của quân Đại Hoa đã chậm lại nhiều. Biết rằng cường công thì chỉ tổ tốn xương máu lính tráng, Chu Định liền dùng kế chia để trị. Một mặt, hắn cho họ Triệu quyền tự mộ lính, tự thu thuế, khiến tông thất họ Triệu hết lòng nghi ngờ quân Đại Hoa mà chuyên tâm đấu với họ Dương, khiến lính Đại Hoa được nghỉ mà dân Bách Việt đấu đá đẫm máu. Thứ hai, 30 vạn dân phu đi sang, Chu Định cho họ canh tác nông nghiệp tại những cánh đồng mà trước đây là của dân Bách Việt, nay không còn ai ở do chiến tranh, điều này cho quân đội Đại Hoa một nguồn lương thực dồi dào. Thứ ba, Chu Định cho người đi mua chuộc những kẻ có lòng dạ phản chắc, ham sống sợ chết, tham vinh hoa phú quý tới độ có thể bán nước cầu vinh, tạo thành lực lượng tay sai.

Sau một năm chuẩn bị, vạn sự đã có đủ, Chu Định nhanh chóng tung quân đánh bại người Bách Việt, truy lùng họ Dương, đẩy họ phải trốn sang Ai Lao. Còn với Triệu Văn Nghị, hắn được phong làm vương như một phiên thuộc của Đại Hoa, nhưng đồ cống nạp thì cực kỳ hà khắc. Thế nhưng điều này lại làm Triệu Văn Nghị thấy thoải mái, vì đòi đồ cống vẫn đỡ hơn là không trả nước cho hắn. Thế nhưng hóa ra Triệu Văn Nghị nghĩ ngây thơ quá, sau 3 năm liên tục đòi cống nạp cao giá, những tên tay sai mà ngày trước Chu Định mua chuộc đã sách động lòng dân, gây loạn, giúp Đại Hoa có cớ can thiệp. Thế rồi lấy lý do quốc chủ Bách Việt không có năng lực, Chu Định liền phế Chu Văn Nghị, xóa tên Bách Việt và lập ra Nam Giao Đô Ty- tức là đơn vị hành chính cấp một của Đại Hoa, nhưng dân bản địa đông hơn dân Đại Hoa vừa chuyển đến.
— QUẢNG CÁO —


Sau khi thành lập Nam Giao Đô Ty xong, Chu Định đã ở lại và xây dựng vùng đất này thành một bàn đạp cực kỳ tốt để chuẩn bị công cuộc tây chinh qua các tiểu quốc ở cạnh Bách Việt như Miến Điện, Xiêm La, Ai Lao, Chân Lạp rồi lấn sang đất Thiên Trúc ở bên cạnh. Tất nhiên, chiến tranh thì tiêu hao sẽ cực kỳ lớn, nên việc này phải chậm mà chắc, không thể hấp tấp vội vàng. Cũng vì vậy, Đại Hoa tiến hành đầu tư vào Bách Việt rất cẩn thận: một mặt phải khiên vùng đất này trở thành chủ lực cho những cuộc chiến liên miễn sắp đến, mặt khác phải khiến người dân ở đây không nổi loạn khi đã được võ trang.

Để làm được điều này, triều đình Đại Hoa tiến hành các biện pháp chính trị- kinh tế- quân sự- văn hóa liên hoàn:

Về chính trị, Đại Hoa xây dựng những lực lượng tay sai từ trung ương tới địa phương để ngăn cản sự đoàn kết và phản kháng của dân Bách Việt. Tiếp đó, ngoài một phần dân phu đã đến Bách Việt lúc trước, một phần lớn dân Hoa và các tộc thiểu số được đưa xuống Bách Việt, tiến hành đồng hóa và làm hỗn loạn, từ đó dễ bề cai trị nơi đây.

Về kinh tế, Đại Hoa thi hành những chính sách bóc lột nặng nề dân Bách Việt: thuế, kiểm soát hàng hóa, thu mua ác ý những mặt hàng chiến lược như sắt, muối, gạo,… đồng thời đưa ra những điều ưu đãi cho dân Đại Hoa và bè lũ tay sai. Điều này làm kinh tế Bách Việt phát triển què quặt, phụ thuộc mạnh vào triều đình Đại Hoa. Hơn nữa, người dân di cư từ Đại Hoa xuống hoặc những kẻ đã hàng phục thì được cho những chỗ đất tốt, những trọng điểm kinh tế, còn dân Bách Việt bị đẩy ra vùng biên thùy, vùng hẻo lánh, chỗ khó canh tác làm ăn,…

Về quân sự, quân đội Địa Hoa duy trì lực lượng tinh nhuệ ngày trước đã vào Bách Việt: 10 vạn, chia ra đóng giữ những chỗ hiểm yếu: các thành trì lớn, những vừa lúa, hải cảng quan trọng, … Quân tay sai tuy vẫn có, nhưng trang bị không chỉ kém hơn một bậc, lại còn phải chịu giám sát của Giám Binh người Hoa mới được, nên lực lượng này gần như không có khả năng nổi loạn thành công. Đồng thời, nếu như các lực lượng quân đội Đại Hoa được đóng quân gần nguồn cung cấp lương thực hoặc các thành trì lớn để dễ bổ sung quân giới, lương thực hoặc người, thì quân tay sai Bách Việt thường là lính thú đóng ở biên ải, luôn đúng trước nguy cơ chạm mặt lực lượng quân đội các nước như Ai Lao, Lan Xan, Chân Lạp, Chiêm Thành, …. rất cần chi viện từ phía sau nên không thể không nghe lời các chỉ huy Đại Hoa,

Cuối cùng, văn hóa, thứ đã giúp Bách Việt tự chủ bấy lâu, thì người Hoa càng quyết tâm tàn phá thông qua việc đốt bỏ kinh sách của người Bách Việt viết, đưa kinh sách người Hoa dùng, lại đưa các nền văn hóa, tôn giáo mới từ những vùng đất Đại Hoa chinh phạt được du nhập vào Bách Việt, khiến người Bách Việt chỉ trong 20 năm đã hỗn loạn về văn hóa, cổ kim chống đối lẫn nhau, xung đột văn hóa, tôn giáo ngày càng trầm trọng.

Sau 16 năm thi hành các chính sách trên, về cơ bản thì Nam Giao đã mất khả năng chống đối và buộc phải chấp nhận thân phận nội thuộc. Đáng lẽ, triều đình Đại Hoa nên tiếp tục chính sách đồng hóa bắt buộc thêm chừng 10- 20 năm nữa, thì vùng đất Nam Giao này sẽ mãi mãi nằm trong cương thổ Đại Hoa, nhưng lần lượt hai nhân vật quan trọng nhất đảm bảo thi hành những chính sách trên chết đi: Đại Hoa Thành Tổ Chu Hữu và Xương Thành Vương Chu Định. Sau khi hai nhân vật này chết, hoàng đế kế tục là Đại Hoa Thành Tông Chu Củng Lượng quyết định củng cố quyền lực thông qua các cuộc chinh phạt: Cao Câu Ly, Đông Doanh, Đột Quyết, Tây Bắc Hãn Quốc, Miến Điện, Thiên Trúc, Chiêm Thành, Chân Lạp…

Trong bốn cuộc chinh phạt Chiêm Thành, Chân Lạp, Miến Điện và Thiên Trúc, do nằm ở vị trí thuận lợi xuất quân, Nam Giao là một trong những nơi bị ép phải điều động nhân- vật lực nhiều nhất, khiến người dân Nam Giao nhanh chóng có thái độ bất mãn với triều đình Đại Hoa, đồng thời những lực lượng mong muốn khôi phục Bách Việt cũng dần dần hoạt động trở lại. Tiếc là quân đội Đại Hoa vẫn rất mạnh, nên Nam Giao vẫn giữ nguyên tên gọi là Nam Giao Đô Ty.

Tuy vậy, các cuộc chinh phạt của Đại Hoa Thành Tông Chu Củng Lượng đã không đạt được kết quả như ý: trừ Đông Doanh và Cao Câu Ly bị chinh phục và sáp nhập thành Đông Doanh Đô Ty và Liêu Đông Đô Ty, thì tất cả những cuộc chiến khác đều thất bại thảm hại: tổn hao binh sĩ, lương thảo, tiền bạc,… khiến những thế lực trước từng ủng hộ Chu Củng Lượng nay lại ra chiều chống đối. Để có lại sự ủng hộ, Đại Hoa Thành Tông Chu Củng Lượng cho phép quan lại địa phương hưởng chút lợi lộc, như quyết định tăng thêm sưu thuế tại những vùng đất vừa chiếm được không lâu: Đông Doanh, Liêu Đông, Nam Giao, Thổ Phiên, Tây Vực,… cùng với việc đánh thêm thuế vào những sắc dân khác dân Hoa như: Khương, Miêu, Bạch, Thái,…. Không chỉ tăng sưu thuế, cống phẩm quý hiếm cũng bị yêu cầu tăng sản lượng: trầm hương, gỗ quý, ngà voi, ngọc trai, đồi mồi,…. Số tiền thu được xung vào quốc khố, làm phần thưởng chia cho các quan, đổi lấy sự ủng hộ của họ. Hành vi này làm đời sống dân chúng những nơi này càng thêm khốn khổ. Thậm chí ở nhiều nơi, dân chúng đã tìm cách đi tới những vùng xa xôi hẻo lánh mà những chính sách thuế má của triều đình Đại Hoa không vươn tới được, bất chấp sự nghèo khó, giao thông bất tiện hay là cả sự nguy hiểm luôn rình rập.

Làng Hồng Bàng cũng là một nơi như thế, nó được lập ra bởi những người không chịu nổi thuế má khắc nghiệt của Đại Hoa, trong làng có 3 họ lớn là - Đào, Đỗ và Hoàng. Đây cũng là 3 dòng họ khai làng, họ Đào xuất thân từ trung nông, họ Đỗ là tiểu thương còn họ Hoàng là lính thú. Vốn xuất thân lính thú, nhân một đợt đi tìm hiểu địch tình, nhận thấy địa thế vùng đất mà ngày nay là làng Hồng Bàng có thể ở được, cụ tổ họ Hoàng đã bàn bạc với những người khác, trong đó hai họ Đào, Đỗ là ủng hộ nhiệt tình nhất. Rồi thời cơ thuận lợi, họ liền di dời lên đây sinh sống.

Hồng Bàng là một vùng đất ráp ranh với các tiểu quốc Chiêm Thành, nhưng được che phủ bởi một cánh rừng ở phía nam, một ngọn núi ở phía tây, phía đông là biển rộng, phía bắc là đồi nhỏ, khó đi. Ở giữa 4 vùng địa hình này, là một mảnh đất khá bằng phẳng, có dòng sông nhỏ chảy qua, thủy lợi thuận tiện, có thể trồng trọt sinh sống. Dựa vào nguồn lợi hải sản cũng như thủy lợi để làm nông nghiệp, dân Hồng Bàng vẫn có cuộc sống ổn thỏa. Nhưng cũng chỉ được chừng 20 năm, Đại Hoa tiếp tục tiến hành công cuộc nam tiến, làng Hồng Bàng nhân đó mà bị phát hiện. Chỉ là lúc này, tình thế đã khác: Đại Hoa Thành Tông Chu Củng Lượng chết, Đại Hoa Thường Tông Chu Lại lên ngôi, cho giảm tô thuế, lao dịch tại những vùng đất mới chiếm đóng, củng cố sản xuất, hòa hảo các sắc dân trong Đại Hoa, nên dân Hồng Bàng không cần chuyển đi nơi khác, chỉ cần ngoan ngoãn là đủ.
— QUẢNG CÁO —

Quân Đại Hoa ở Nam Giao Đô Ty nam tiến, là do trong thời gian qua, các tiểu quốc Chiêm Thành thấy Đại Hoa hiền, nên lấn tới, tấn công nhiều cảng phía nam Nam Giao Đô Ty. Dù đám này giả dạng cướp biển, nhưng sao qua mắt nổi thiên triều. Quân Đại Hoa đốc quân tới, đánh tới đâu chắc tới đó, đi dân lập lên những khu hậu cần- sau thành làng xã, rồi tiện thể dùng làng Hồng Bàng làm một căn cứ, di dân tới làm phu phen. Mặc dù trận chiến đó, làng Hồng Bàng nhiều người bị bắt đi phu, đi lính, chết cũng khá, nhưng cũng bổ sung cho làng một lượng nhân khẩu lớn để làng phát triển thêm.

Ba dòng họ ban đầu khởi lập làng cũng chịu sự biến đổi, hai họ Đào và Đỗ gặp cảnh bắt lính, cắn răng cung cấp vật lực, tài lực để quan quân hưởng thụ, nam đinh được giữ lại, họ Hoàng lại cậy bản thân là con nhà võ, tham chiến, dù quân công cao, chết cũng lắm, từ một họ có tới 100 nhân khẩu, 40 đinh ( đàn ông từ 16 đến 50 tuổi) lớn, chỉ còn một dòng duy nhất của ông Hoàng Văn Mảnh là sống sót, từ đó bắt đầu suy bại. Hai họ Đào và Đỗ còn giữ được nhân khẩu, từng bước phát triển, họ Đào chiếm được nhiều ruộng đất của làm làm bá hộ, kiêm nhiệm các chức sắc trong làng, họ Đỗ theo chân quân đội Đại Hoa, buôn bán kiếm chác, thành thương nhân kiếm được nhiều tiền.

Tới thời 4 anh em Hoàng Văn Định, Đinh, Đỉnh, Đĩnh, còn trai ông Mảnh, họ Hoàng chỉ còn miếng đất nhỏ để canh tác, gia đình nghèo quá, lại 7 người con, 3 là con gái. Thương cha mẹ và các em gái, 4 người thanh niên quyết tâm đi làm giàu.

Đại Hoa lúc bấy giờ diệt xong tiểu quốc Laja của Chiêm Thành, đặt nơi đây làm Trấn Hoài Nhân, quan quân ở Trấn lấy các chiến lợi phẩm là đống thuyền cũ của người Chiêm đóng cho thương nhân tới thuê để buôn bán, làm thương mại đường biển phát triển vô cùng. Có thương nhân người Bách Việt tên Hoàng Tư Trịnh giàu có vô cùng, đã mua mấy con thuyền lớn, thường xuyên chở hàng từ bắc xuống nam buôn bán. Định và 3 người em cũng đăng ký làm thuyền viên cho đội buôn này. Công việc vất vả vì hàng hóa nhiều, đi lại nhiều, bù lại thu nhập không ít, tiền gửi về quê giúp hai người em gái kiếm được chồng, bố mẹ và em út mua thêm được mấy con lợn để nuôi.

Nhiều tiền lắm của, Hoàng Tư Trịnh đi buôn mà cũng rất xa hoa, đem cả người vợ nhỏ mới cưới theo cùng. Lần này ông ta đi buôn, chuyến hàng rất giá trị, đoàn thuyền 5 chiếc, chất đầy hàng. Để bảo vệ hàng hóa, Trịnh cẩn thận thuê vệ sĩ giỏi, mua cả lính đánh thuê từ các nước Nam Dương, Lữ Tống tới bảo vệ. Tiếc thay, nhân họa dễ phòng, thiên tai khó tránh, một trận bão lớn đã xuất hiện, làm đội buôn tan tác. Con thuyền chở Hoàng Tư Trịnh do chở ít hàng hóa, bị cuốn ra xa rồi bị nhấn chìm, Hoàng Tư Trịnh cùng các thuyền viên ngã ra biển, tản mác hết, Hoàng Văn Định may mắn bám được cái ván lớn. Đang lóp ngóp bơi, lại thấy có người cũng rơi, ông ta bơi lại cứu, thì thấy là người thiếp của chủ thuyền, sau này ông ta được biết tên là Văn Nguyệt Nga. Hai người ôm cái ván bơi lội ngót ba ngày thì được người ta tìm thấy vớt lên.

Người vớt họ là một thương thuyền của người Nam Dương tới Trấn Hoài Nhân buôn bán. Nếu Hoàng Văn Định mà là Hoàng Tư Trịnh hay người phụ nữ này là vợ cả ông chủ Trịnh thì dễ, nhưng cô ta chỉ là vợ lẽ, nên cả hai sau khi cảm ơn cái ơn cứu mạng của thuyền buôn, phải ở trên thuyền phục vụ hơn năm tháng, theo hành trình của thuyền buôn đi từ Trấn Hoài Nhân, 3 tiểu quốc Chiêm Thành: Kathura, Avajajay, Papurati.

Trong suốt chuyến đi, Hoàng Văn Định căng sức bảo vệ Văn Nguyệt Nga, tư sắc của cô ta luôn làm đám thuyền viên sống trên thuyền, những kẻ đã xa gia đình, vợ con, ít được tiếp xúc với đàn bà, cực kỳ thèm khát, còn phần nữa là vì cô đã có thai. Hoàng Văn Định nghe Văn Nguyệt Nga kể việc mình có thai, động lòng trắc ẩn nên bảo vệ cô tới cùng. Từng có lúc, Hoàng Văn Định đứng ở bên ngoài phòng ngủ của hai người, chặn bọn thuyền viên to khỏe không cho chúng vào trong chỗ Nga để dở trò, bị chúng xúm vào đánh dập môi, rách mi mắt, tới tận khi mọi người xúm lại can mới hết.

Cùng đoàn thuyền quạy lại cảng An Ổn, huyện Sơn Hải, Châu Nam Bình, hai người xin xuống, nơi này gần quê Định, số tiền tích cóp được khi làm thuê trên tàu cũng khá, với cả Nga đã lộ bụng, không tiện đi thuyền nữa. Mất mấy ngày để Định và Nga về được tới nhà để sắp xếp tạm, cậu ta sẽ đi nghe ngóng tin tức, thuận lợi sẽ đưa cô về cho ông chủ, biết đâu có khoản tiền thưởng.

Khi hai người về tới nhà, ông bà Mảnh suýt ngất, vì cứ tưởng là hồn mà bóng quế của thằng con trưởng. Hóa ra, thuyền mà Hoàng Tư Trịnh đi bị chìm, cực nhiều người chết, kể cả ông chủ Hoàng Tư Trịnh. Người ta vớt được xác lên rồi, mang ra bắc cho gia đình.

- Cái gì, ông chủ Trịnh chết rồi ư?

- Đúng rồi anh ạ. Tiệm buôn của họ ở dưới này cũng đi hết luôn.

Hai tin sét đánh liên tiếp khiến Văn Nguyệt Nga chịu không nổi. Cô là vợ bé, chồng chết coi như mất chỗ dựa, may ra còn cái thai này, nếu là con trai, thì có thể mang ra để hù dọa mấy câu, mong mẹ nhờ con. Nhưng cơ sở làm ăn của ông ta không còn ở đây, thì làm gì còn cái gì để dựa vào. Đừng nói tới việc làm thế nào để có thể đuổi ra bắc được. Thời này đi xuyên bắc nam không hề dễ, tiền đi quá lớn, còn nạn cướp, tuy cướp biển tới cướp cạn tuy không tới mức hoành hành, nhưng cũng không phải không có. Hoàng Tư Trịnh giàu có lắm mới đi được, Văn Nguyệt Nga giờ thân cô thế cố, làm sao đi nổi.
— QUẢNG CÁO —

- Cô cứ tạm ở nhà tôi dưỡng thai, chờ sinh con ra rồi tính tiếp, chứ giờ chả làm được gì hết cả?- Hoàng Văn Định thấy thương hại, mới nói vậy

- Xin cảm ơn anh, sau này nếu có thể, tôi nhất định báo đáp.

- Ầy dà, tôi cũng ăn cơm của ông Trịnh rồi, chăm sóc con nhỏ của ông ấy, cũng là báo ơn.

Văn Nguyệt Nga từ khi đó ở lại làng Hồng Bàng, chờ ngày sinh con. Ban đầu thì người nhà Định còn không nói gì, nhưng quả thực họ khá nghèo, nên có thêm một miệng ăn, lại chẳng phải người thân , khác máu tanh lòng, Nguyệt Nga không được ai quý. Văn Nguyệt Nga sinh ra trong nhà có của ăn của để, được giáo dục cẩn thận, lấy chồng trước lại là người giàu, tất nhiên không kham nổi việc nhà nông, lại bụng mang dạ chửa, thành ra rất vô dụng, càng làm họ ghét. May sao, Hoàng Văn Định kiên trì nên mẹ con cô được ở lại nhà của Hoàng Văn Định.

- Anh cầm lấy cái này!- Nga là người có ăn có học, tự trọng cao, liền đem ra cái vòng tay nhỏ bằng bạc, nhờ Định đem bán. Dù Văn Nguyệt Nga rất được yêu thương, nữ trang không hiếm, nhưng hồi tai nạn, ở trên thuyền sống nhờ, cô phải đem hết mấy thứ đó ra tặng để cầu an thân, chứ không dù có Định bảo vệ cũng khó thoát nạn. Chỉ còn chiếc vòng bạc cuối cùng để làm chỗ phòng bị

- Ấy chết, tôi… tôi đem thứ này đi thì tội quá.

- Coi như tôi góp tiền ăn, tôi ăn hoài ở đây, chả giúp ích được gì, cũng xấu hổ?

Hoàng Văn Định đành nhận, rồi bảo cô em út đem đi bán. Số tiền cũng không được nhiều, nhưng đủ để cô ăn uống tới khi sinh nở. Văn Nguyệt Nga sinh được một bé trai, đặt tên là Hoàng Anh Minh. Người con trai sinh ra, khiến Văn Nguyệt Nga có chút động lực, cô quyết tâm phải nuôi dạy con thật tốt, rồi để sau này thằng bé có thể lớn lên, tìm lại gốc gác.

Văn Nguyệt Nga nghĩ nát cả óc, lại không ngừng hỏi thăm Hoàng Văn Định, khi nghe ba người em của Định đang đi học nghề mộc, mới nghĩ ra một cách kiếm tiền dựa vào đó. Hiển nhiên là Văn Nguyệt Nga không biết đục đẽo gì, nhưng cô có thể vẽ hình để thợ mộc theo đó mà đục theo. Những sản phẩm gỗ khá đẹp, đem đi bán được tiền cao hơn chỉ đẽo đồ thường. Không chỉ vẽ mẫu vật, Nga còn có thể tính sổ sách, bàn chuyện mua bán, tính giá cả nguyên vật liệu, tính toán cách tận dụng các loại gỗ, vvv Nhiều lúc, cô tự lên trên cửa hàng, đi gặp gỡ khách hàng, bán được khá tốt.

Thế nhưng, tài năng là vậy, Văn Nguyệt Nga vẫn là người phụ nữ truyền thống, không thể ngày ngày ra nhảy ra làm ăn, không quen tiếp xúc với những người mua hàng thô lỗ. Rồi thì mấy người em trai của Định cũng dần không còn cần cô vẽ mẫu, họ có thể tự làm, không tinh xảo bằng, nhưng cũng chấp nhận được. Vậy là Nga đứng trước cảnh thất nghiệp tới nơi. Biết rằng thân phận mình như này, nếu rời khỏi cửa hàng đồ gỗ này để tìm việc khác thì thật khó lắm, mà lại thấy Hoàng Văn Định vẫn thường tỏ ra tôn trọng bản thân, nhiều lần cứu mình, Văn Nguyệt Nga nhắm mắt bước tiếp, lấy Hoàng Văn Định. Khi đó, Minh đã 4 tuổi. Năm trước lấy chồng, năm sau, cô mang thai và sinh đứa thứ hai, đặt tên là Anh Kiệt.

Tiên lộ gập ghềnh, nữa bước khó đi, trường sinh tịch mịch, một người khó vấn, nếu tự biết đã không thể thành tiên vương, tiên đế, sao không thể thử làm chạn vương?
Muốn Trường Sinh Trước Hết Phải Đồng Vợ Đồng Chồng